image
CÁC NGUYÊN TẮC KHI CẤP CỨU NGƯỜI BỊ ĐUỐI NƯỚC
Lượt xem: 4374
Mới chỉ vào đầu mùa hè mà trên cả nước đã liên tiếp ghi nhận các vụ đuối nước thương tâm, nạn nhân chủ yếu là trẻ em. Tai nạn do đuối nước có thể xảy ra trong các trường hợp: Ngạt nước, những người không biết bơi ngã xuống nước, trẻ em ngã cắm đầu vào chậu nước hay bồn tắm; ngất đột ngột khi vừa tiếp xúc với nước; lặn sâu dưới nước khi hết hơi không ngoi lên kịp bị ngạt; bơi quá mệt, cơ thể mất nhiệt do nước lạnh, bị chuột rút… Hậu quả có thể dẫn tới các di chứng nặng nề hoặc tử vong nếu không được sơ cứu kịp thời và đúng cách. Chính vì vậy, sơ cứu đuối nước có vai trò quyết định để giảm tỷ lệ tử vong và di chứng sau đuối nước ở trẻ.

 

1. Nguyên tắc cấp cứu tại chỗ ngạt nước, đuối nước

 

Nguyên tắc: Khẩn trương, ngay tại chỗ, đúng phương pháp để nhanh chóng giải phóng đường thở và cung cấp oxy cho nạn nhân.

 

Việc làm đầu tiên:  Cần đưa nạn nhân ra khỏi nước.

anh tin bai

TƯ THẾ ĐÚNG ĐƯA NẠN NHÂN LÊN BỜ

- Nếu người cứu biết bơi và có kỹ năng cứu hộ thì có thể xuống nước để đưa nạn nhân lên bờ. Khi cấp cứu nạn nhân ngay ở dưới nước cần phải nâng đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, có động tác để giúp cho nạn nhân trấn tĩnh và thở.

- Nếu người cứu không biết bơi hoặc chưa thuần thục bơi lội, tuyệt đối không nhảy xuống nước bởi nạn nhân lúc này đang trong tình trạng hoảng loạn, giãy giụa, dễ níu chặt lấy bất cứ thứ gì với được, kể cả người cứu nạn. Trong trường hợp này, cần tìm khúc gỗ, phao, dây… ném xuống cho họ bám vào để lên bờ hoặc chạy ngay đi tìm người có khả năng đến cứu.

anh tin bai

TƯ THẾ ĐÚNG ĐƯA NẠN NHÂN LÊN BỜ

 Khi đưa nạn nhân lên bờ

Sau khi đưa người bị nạn lên bờ, sẽ xảy ra các tình huống: có người không sao cả do chỉ uống vài ngụm nước; có người thì ho sặc - hơi khó thở; có trường hợp thì bất tỉnh. Và việc sơ cứu khẩn cấp chủ yếu đặt ra với người bị bất tỉnh là chính. Cần tiến hành cấp cứu tại chỗ, khẩn trương bởi đây là giai đoạn vàng quyết định mạng sống của nạn nhân.

Với người lớn và trẻ lớn:

anh tin bai

 

- Đặt nạn nhân ở tư thế nằm ngửa trên mặt phẳng cứng. Nếu nạn nhân tím tái, ngừng thở (lồng ngực không di động), tim ngừng đập (sờ mạch không có) và không có bất cứ phản xạ nào thì phải tiến hành ép tim ngoài lồng ngực và hô hấp nhân tạo ngay lập tức.

+ Kỹ thuật ép tim ngoài lồng ngực: Dùng hai tay chồng lên nhau đặt ngay vào vị trí một nửa dưới xương ức và ấn tim với tần số ép khoảng 100 lần/1 phút, ép tim dứt khoát, để lồng ngực có sự giao động, không ép tim quá mạnh có thể làm gãy xương sườn của nạn nhân.

+ Hô hấp nhân tạo: Móc đờm dãi, dị vật khỏi miệng nạn nhân, giữ thẳng đầu và hà hơi thổi ngạt với phương pháp miệng thổi miệng cho nạn nhân. Lưu ý, khi hà hơi thổi ngạt phải bịt mũi nạn nhân lại để luồng không khí xuống phổi.

+ Việc ép tim ngoài lồng ngực và hà hơi thổi ngạt phải được tiến hành luân phiên nhau.

·        Nếu chỉ có một người tiến hành sơ cứu, thì ấn tim ngoài lồng ngực 15-30 nhịp, sau đó hà hơi thổi ngạt 2 lần và tiếp tục lặp lại chu kỳ đó cho đến khi nạn nhân tỉnh lại.

·        Nếu có hai người cấp cứu thì một người ấn tim ngoài lồng ngực, một người hà hơi thổi ngạt, kiên trì thực hiện cho đến khi nạn nhân hồi tỉnh trở lại hoặc cho đến khi nạn nhân được đưa đến cơ sở y tế gần nhất.

 

Với trẻ nhỏ:

- Đặt trẻ nằm ở mặt phẳng chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu trẻ bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là trẻ đã ngưng thở, cần tiến hành hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực ngay lập tức.

+ Đối với trẻ dưới 1 tuổi: Dùng 2 ngón tay cái ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 đốt ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).

+ Đối với trẻ từ 1 - 8 tuổi: Dùng 1 bàn tay ấn vào phía trên mỏm ức 2 đốt ngón tay.

Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5 lần ấn tim /1 lần thổi ngạt (đối với trẻ dưới 8 tuổi) hoặc 15 lần ấn tim / 2 lần thổi ngạt (đối với trẻ trên 8 tuổi).

- Vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này cho đến khi nạn nhân tự thở lại được hoặc có sự giúp đỡ của nhân viên y tế. Việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn.

- Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân vẫn còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp cứu. Quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho nạn nhân.

- Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư thế an toàn, đầu nằm nghiêng, kê gối dưới hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.

 

2. Lưu ý khi cấp cứu người ngạt nước, đuối nước

Không được chậm trễ trong cấp cứu người bị đuối nước, bằng mọi cách và khả năng hiểu biết cấp cứu nạn nhân ngay lập tức, ngay tại chỗ khi đưa được nạn nhân lên bờ.

- Không nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà chỉ cần chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết. Trong quá trình hồi sức cấp cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài. Nếu là nước sông, hồ thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do hiện tượng thẩm thấu (nước sông có nồng độ loãng hơn máu).

- Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân, nhất là trẻ nhỏ.

Với ngạt nước, sơ cứu tại chỗ đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của người bị nạn.

 

 

3. Phòng ngạt nước, đuối nước như thế nào?

Ngoài việc sơ cứu kịp thời phòng tránh đuối nước là một giải pháp tối ưu trong việc giảm thiểu hậu quả.

Đối với trẻ em

Không bơi, chơi ở những nơi gần sông, hồ… khi không có người lớn giám sát.

Những nguyên tắc an toàn khi bơi:

+ Không nhảy cắm đầu ở những nơi không có chỉ dẫn.

+ Không tắm, bơi ở những nơi có nước sâu, chảy xiết, xoáy và không có người lớn biết bơi và cứu đuối.

+ Không bơi khi trời đã tối, có sấm chớp, mưa.

+ Tuyệt đối tuân theo các bảng chỉ dẫn nguy hiểm.

+ Phải khởi động trước khi xuống nước.

+ Không ăn uống khi đang bơi để tránh sặc nước.

+Thận trọng khi dùng các phao bơm hơi ở chỗ nước sâu vì phao có thể bị xẹp bất cứ lúc nào.

+ Không đi tắm bơi lội ở ao hồ một mình mà không có người lớn biết bơi đi kèm.

Đối với người lớn

Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không. Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền. Không ăn no, không uống rượu trước khi xuống nước.

Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát. Cần thực hiện nghiêm túc về an toàn giao thông đường thủy như: An toàn về phương tiện, có đầy đủ phao cứu sinh, áo phao, chở đúng số người quy định.